|
Tượng mảng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt chỉ vì khử bạo. Như nước Việt ta từ trước, Vốn xưng văn hiến đã lâu, Sơn hà cương vực đã chia, Phong tục bắc nam cũng khác. Từ Triệu, Ðinh, Lý, Trần, gây nền độc lập,[1] Cùng Hán, Ðường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, Song hào kiệt đời nào cũng có.
Vậy nên:
Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình. Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Ðô, Sông Bạch Ðằng giết tươi Ô Mã.[2] Xét xem cổ tích, Đã có minh trưng.
Vừa rồi:
Vì họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước nhân dân oán hận. Quân cuồng Minh đã thừa cơ tứ ngược, Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khóe, Ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn, Nặng khoá liễm vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, Nào xuống bể mò châu, Nào hố bẫy hươu đen, Nào lưới dò chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc, Nheo nhóc thay quan quả điên liên. Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa. Nặng nề về những nỗi phu phen, Bắt bớ mất cả nghề canh cửi. Ðộc ác thay! Trúc rừng không ghi hết tội, Dơ bẩn thay! Nước bể không rửa sạch mùi. Lẽ nào trời đất tha cho, Ai bảo thần nhân nhịn được.
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa, Chốn hoang dã nương mình. Ngắm non sông căm nỗi thế thù, Thề sống chết cùng quân nghịch tặc. Ðau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa, Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tính; Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu. Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần, Nơi duy ác hiếm người bàn bạc. Ðôi phen vùng vẫy, vẫn đăm đăm con mắt dục đông, Mấy thủa đợi chờ, luống đằng đẵng cỗ xe hư tả. Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương. Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội vã như khi chửng nịch. Phần thì giận hung đồ ngang dọc, Phần thì lo quốc bộ khó khăn. Khi Linh sơn lương hết mấy tuần, Khi Khôi huyện quân không một lữ. Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiếc thiên ma, Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. Múa đầu gậy, ngọn cờ phất phới, ngóng vân nghê bốn cõi đan hồ. Mở tiệc quân, chén rượu ngọt ngào, khắp tướng sĩ một lòng phụ tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi, Quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn.
Dọn hay:
Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân mà thay cường bạo. Trận Bồ Ðằng sấm vang sét dậy, Miền Trà Lân trúc phá tro baỵ. Sĩ khí đã hăng, Quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ mất vía chạy tan, Phương Chính, Lý An tìm đường trốn tránh. Ðánh Tây Kinh phá tan thế giặc, Lấy Ðông Ðô thu lại cõi xưa. Dưới Ninh Kiều máu chảy thành sông, Bến Tuỵ Ðộng xác đầy ngoài nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng, Lý Lượng phải phơi thây. Vương Thông hết cấp lo lường, Mã Anh khôn đường cứu đỡ. Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao, Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó phải thay lòng đổi dạ, hiểu lẽ tới lui, Ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội nghiệp. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người, Tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dơ duốc. Ðến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyên Đức, nhàm võ không thôi; Lại sai đồ nhút nhát như Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy. Năm Ðinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng từ Khâu Ôn tiến sang Lại năm nay tháng mười, Mộc Thạnh tự Vân Nam kéo đến. Ta đã điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc quân, Ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo. Mười tám, Liễu Thăng thua ở Chi Lăng, Hai mươi, Liễu Thăng chết ở Mã Yên. Hai mươi lăm, Lương Minh trận vong, Hai mươi tám, Lý Khánh tự vẫn.
Lưỡi dao ta đang sắc, Ngọn giáo giặc phải lùi. Lại thêm quân bốn mặt vây thành, Hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc. Sĩ tốt ra oai tì hổ, Thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng mòn, Voi uống nước, nước sông phải cạn. Ðánh một trận sạch không kình ngạc, Ðánh hai trận tan nát chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. Thôi Tụ phải quỳ mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để ra hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường, Xương Giang, Bình Than máu trôi đỏ nước. Gớm ghê thay! Sắc phong vân cũng đổi, Thảm đạm thay! Sáng nhật nguyệt phải mờ.
Binh Vân Nam nghẽn ở Lê Hoa, sợ mà mất mật; Quân Mộc Thạnh tan chưng Cầu Trạm, chạy để thoát thân. Suối máu Lãnh Câu, nước sông rền rĩ, Thành xương Ðan Xá, cỏ nội đầm đìa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; Các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội; Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa, ngỏ lòng thú phục, Ta muốn toàn quân là cốt, cả nước nghỉ ngơi.
Thế mới là mưu kế thật khôn, Vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang sơn từ đây mở mặt, Xã tắc từ nay vững nền. Nhật nguyệt hối mà lại minh, Càn khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chăn chắn, Thẹn nghìn thu rửa sạch lầu lầu. Thế là nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng che chở, giúp đỡ cho nước ta vậy.
Than ôi!
Vẫy vùng một mảng nhung y, nên công đại định, Phẳng lặng bốn bề thái vũ, mở hội vĩnh thanh. Bá cáo xa gần, Ngỏ cùng nghe biết. Nguồn: Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Sài Gòn, Bộ Giáo dục, Trung tâm Học liệu xuất bản, in lần thứ mười, 1968.
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Như nước Đ¹i Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cỏi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong; Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận Quân cuồng Minh thưà cơ gây hoạ Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế Gây thù kết oán trải mấy mươi năm Bại nhân nghĩa nát cả đất trời. Nặng thuế khoá sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc. Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng. Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng. Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán, Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa? Nặng nề những nổi phu phen Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi ! Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh, Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ. Những trằn trọc trong cơn mộng mị, Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu, Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần, Nơi duy ác hiếm người bàn bạc, Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông, Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi. Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối. Phần vì giận quân thù ngang dọc, Phần vì lo vận nước khó khăn, Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, Lúc Khôi Huyện quân không một đội. Trời thử lòng trao cho mệnh lớn Ta gắng trí khắc phục gian nan. Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào. Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay. Sĩ khí đã hăng Quân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân. Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại, Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về. Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm Tuỵ Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng. Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng. Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt, Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công. Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan. Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác, Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang. Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn. Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau Lại thêm quân bốn mặt vây thành Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc Sĩ tốt kén người hùng hổ Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận, sạch không kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ. Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội, Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi, Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật! Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân. Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen. Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp, Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu Muôn thuở nền thái bình vững chắc Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng, Nên công oanh liệt ngàn năm Bốn phương biển cả thanh bình, Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo, Ai nấy đều hay.
| |